Tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 19 – 20%
Hôm qua 3.10, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) họp báo thông tin kết quả hoạt động ngân hàng quý 3/2025. Trong đó, Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết từ đầu năm đến nay, tình hình kinh tế – chính trị quốc tế diễn biến khó lường. Cụ thể, quan ngại của thị trường về các chính sách thuế quan của Mỹ và nguy cơ chiến tranh thương mại toàn cầu; xung đột địa chính trị; các cú sốc giá cả hàng hóa; lạm phát mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại… Các yếu tố này sẽ làm thị trường tài chính tiền tệ thế giới biến động phức tạp, tạo áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất (LS) trong nước cũng như việc thực hiện mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt trên 8% trở lên.

Lãi suất cho vay dự báo đi ngang đến hết năm
Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường trong và ngoài nước và bám sát chủ trương của Đảng, Chính phủ, NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Đối với vấn đề tín dụng, Phó thống đốc Phạm Thanh Hà thông tin tăng trưởng tín dụng các tháng trong năm 2025 đều tăng cao hơn so với cùng kỳ năm 2024 và duy trì xu hướng tháng sau cao hơn tháng trước. Đến ngày 29.9, tín dụng nền kinh tế tăng 13,37% so với cuối năm 2024. Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ.
Chia sẻ thêm về vấn đề tín dụng, ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, cho biết ngay từ đầu năm, NHNN đã giao chỉ tiêu và liên tục điều chỉnh room tín dụng cho các ngân hàng, đặc biệt với các đơn vị có hệ số tín nhiệm cao, năng lực tài chính tốt, huy động vốn tốt. Với tốc độ tín dụng như hiện nay, từ nay đến cuối năm, nếu các tổ chức tín dụng có khả năng huy động vốn tốt, lành mạnh, bền vững, để đáp ứng tăng trưởng kinh tế thì dự kiến tăng trưởng tín dụng ước đạt 19 – 20%, đây là mức tăng trưởng tín dụng rất cao so với các năm trước. NHNN luôn giám sát đồng thời cảnh báo với các tổ chức tín dụng để làm sao tăng trưởng cao nhưng đảm bảo hiệu quả và chất lượng tín dụng. Đặc biệt kiểm soát chặt chẽ việc phân bổ vốn, để dòng tiền vào sản xuất, kinh doanh, hạn chế giải ngân khu vực tiềm ẩn rủi ro.
Lãi suất sẽ tiếp tục đi ngang
Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cũng thông tin từ đầu năm 2025 đến nay, NHNN tiếp tục duy trì LS điều hành ở mức thấp để định hướng thị trường giảm LS cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, NHNN thường xuyên chỉ đạo các ngân hàng tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp khác để phấn đấu hạ LS cho vay. Đến nay, LS bình quân các khoản cho vay mới đang ở mức 6,52%/năm, giảm khoảng 0,41% so với năm 2024.
Trên thực tế, khảo sát nhanh của PV Thanh Niên cho thấy LS huy động lẫn cho vay ở các ngân hàng thương mại hiện nay tiếp tục duy trì như thời gian qua, không biến động nhiều. Bà Kim Hoa (P.Tân Hưng, TP.HCM) kể cách đây 1 tháng, hợp đồng vay kỳ hạn 12 tháng của bà đáo hạn mới tăng lên 7,5%/tháng, tăng một ít so với đầu năm. Tuy nhiên, ngân hàng lại “chào” gói tín dụng cho vay với người trẻ dưới 35 tuổi với LS chỉ 5,5%/năm và cố định luôn thời gian 2 năm. Theo bà, nhiều ngân hàng cho biết các đối tượng ưu tiên như người trẻ hoặc vay sản xuất kinh doanh cũng có LS thấp hơn. Mức LS như vậy là dễ chịu hơn các năm trước.
Theo TS Huỳnh Thanh Điền (Trường ĐH Nguyễn Tất Thành), về nguyên tắc, khi chính sách tiền tệ nới lỏng, cung tiền ra nền kinh tế nhiều thì LS sẽ đi xuống. Điều này nhằm khuyến khích người dân, doanh nghiệp vay vốn để gia tăng đầu tư, sản xuất. Mặt khác, LS chỉ là một công cụ để NHNN điều tiết cung tiền. Còn có các công cụ khác như “room” tín dụng, hệ số rủi ro cho vay… Đồng thời, chính sách còn phải đảm bảo cân đối với tỷ giá ngoại hối. Mặt bằng LS của VN đã duy trì ở mức thấp thời gian qua trong khi tỷ giá hối đoái USD/VND tiếp tục tăng. Vì vậy điều này khiến LS khó giảm thêm. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao cho năm nay và những năm tiếp theo, chính sách tiền tệ cũng sẽ tiếp tục duy trì nới lỏng nên LS cũng không thể tăng. Do vậy từ nay đến cuối năm, mặt bằng LS sẽ đi ngang. Ông Huỳnh Thanh Điền nhấn mạnh nếu tăng trưởng tín dụng cả năm lên đến 19 – 20% là rất cao. Cơ quan điều hành cần phải giám sát chặt dòng vốn chảy vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Bởi dòng tiền đi vào các lĩnh vực này nhiều sẽ để lại hệ lụy cho những năm sau, gây lạm phát cũng như gây ra “bong bóng” tài sản. Chính sách tiền tệ phải được áp dụng đồng bộ với chính sách tài khóa, tạo cơ hội cho doanh nghiệp mạnh dạn sản xuất kinh doanh. Từ đó mới hạn chế tình trạng tiền ra nhiều sẽ gây áp lực lên lạm phát trong nước.
Đồng quan điểm, chuyên gia tài chính, TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng LS tại VN cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cung tiền dồi dào thông thường sẽ đẩy LS giảm. Nhưng LS cho vay sẽ tùy vào khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng thương mại, từng đối tượng khách hàng cũng như ngành nghề hoạt động. Có thể các ngành nghề được khuyến khích đầu tư phát triển sẽ được cho vay với LS thấp nhưng lĩnh vực có nhiều rủi ro vẫn phải chịu LS cao. Đồng thời, LS tại VN quá thấp sẽ gây áp lực lên cao cho tỷ giá USD/VND. Vì vậy, ông cũng dự báo từ nay đến cuối năm, LS trên thị trường vẫn đi ngang, không có nhiều biến động. Nếu Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục giảm LS thì NHNN mới có thể giảm LS liên ngân hàng khoảng 0,25%. “Nếu Fed tiếp tục giảm LS trong thời gian tới thì NHNN có thêm dư địa để hạ LS điều hành. Nhưng tôi nghĩ rằng mức LS giảm nếu có sẽ không cao. Bởi ngoài áp lực lên tỷ giá hối đoái thì còn liên quan đến vấn đề lạm phát nên việc giảm LS nữa phải hết sức thận trọng”, TS Nguyễn Trí Hiếu chia sẻ thêm.
Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết những tháng cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, kịp thời và hiệu quả; đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm thực hiện đồng bộ các mục tiêu về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng.